Trong cỗ xe có ba người: ngài cố vấn cơ mật của đại công tước xứ Xắcvâyma, Phôn Gớt (trong danh sách các tân khách đến thành phố Cacbat người ta hãnh diện gọi nhà thơ bằng cái danh hiệu như vậy) và hai người thân tín của ông: Stađeman, người lão bộc và Giôn, viên thư ký, người đã chép lại bản thảo của hầu hết các tác phẩm của ông từ đầu thế kỷ. Không ai nói câu nào, bởi vì ông chưa hề hé răng lần nào từ lúc rời Cacbat, nơi rất nhiều thiếu phụ trẻ và những thiếu nữ đã đến chào hoặc ôm hôn nhà văn nổi tiếng. Ông ngồi im lặng, cặp mắt nhìn trong suy tưởng. Tới trạm nghỉ đầu tiên, ông xuống xe, hai người đồng hành thấy ông ghi nhanh vài chữ trên mảnh giấy.
Suốt dọc đường đến tận Vâyma, cảnh tượng đó lặp lại nhiều lần. Lúc vừa tới Juôtau, rồi ngày hôm sau ở lâu đài Hactăngbe, ở Egi ê, rồi ở Pốctanếch, nơi nào cũng vậy, mối quan tâm đầu tiên của ông là ghi lại những gì đã nghiền ngẫm trong đầu óc trên đường đi. Cuốn nhật ký của ông ghi vắn tắt: Làm thơ (6 tháng 9), tiếp tục làm thơ (chủ nhật, 7 tháng 9); xem lại bài thơ lần nữa (12 tháng 9). Tới Vâyma, tác phẩm đã hoàn thành. Đó là Bản bi ca Marienbat, một bài thơ của tuổi già, bài thơ thâm thúy nhất, sâu kín nhất và cũng là bài thơ ông yêu thích nhất, một lời vĩnh biệt hào hùng, một bước ngoặt vinh quang.
Trong một cuộc chuyện trò, Gớt đã gọi bài thơ đó là: “ Nhật ký của cõi lòng thầm kín “, quả vậy, có lẽ không một trang nào trong nhật ký của ông lại thố lộ một cách chân thực bằng bài thơ vừa băn khoăn đau xót, vừa than vãn bi thảm này, chưa có lần nào trong những năm tuổi trẻ của ông mà nguồn thơ trữ tình lai láng lại trực tiếp tràn ra từ chính đời ông như vậy, không một tác phẩm nào của ông mà ta có thể nhìn thấy sự hình thành rõ rệt đến như vậy – từng giòng từng giòng một, từng giờ từng giờ một – như trong áng thơ sâu thẳm và chín mọng nhất này (của ông già bảy mươi tư tuổi) – một trái cây muộn màng thắm đỏ sắc thu. Như tác giả đã viết cho Eckecman về bài thơ này: “ Đấy là sản phẩm của một niềm say đắm đến tột đỉnh, áng thơ đã kết hợp được sự điêu luyện thần tình về hình thức với chiều sâu và tính chân thực của nội dung. Cho đến ngày hôm nay, một thế kỷ đã trôi qua, chẳng có gì mất đi, tất cả vẫn còn sống động trong những trang diễm lệ này, trên đó lấp lánh vì sao của sự hồi xuân.
Bản bi ca Marienbat báo hiệu một hóa thân trong đời nhà thơ. Tháng hai năm 1822, Gớt bị một trận ốm thập tử nhất sinh, những cơn sốt dữ dội và đột ngột hành hạ thể xác ông, khiến ông nhiều lần bất tỉnh và những tưởng ông không qua khỏi. Các thầy thuốc không tìm ra một triệu chứng nào rõ rệt và chỉ thấy tình thế rất hiểm nghèo, đành chịu bó tay. Nhưng bỗng nhiên bệnh lui cũng đột ngột như lúc nó đến. Tháng sáu Gớt đến Marienbat, sắc diện hoàn toàn thay đổi, mọi người hầu như cho rằng cơn sốt vừa qua chỉ là dấu hiệu một cuộc hồi xuân trong bản thân ông, một “ kỳ dậy thì mới “. Lần đầu tiên từ mấy thập kỷ nay, con người dè dặt, khắc nghiệt, lạnh lùng mà năng lực thi ca hầu như đã biến đổi thành sự uyên bác, giờ đây chỉ sống trong thế giới tình cảm. Âm nhạc “ xé “ lòng ông, ông không thể nghe dương cầm mà nước mắt không đầm đìa, nhất là khi người chơi đàn lại là một thiếu phụ đẹp như Dimanốpska. Ông có khuynh hướng bị hút về giới trẻ khá sâu sắc và các bạn ông xiết bao ngạc nhiên thấy ông già bảy mươi xuân lượn quanh đám phụ nữ đến tận nửa đêm, lại còn khiêu vũ nữa, cái mà ông đã bỏ từ nhiều năm nay. Ông kiêu hãnh kể lại rằng khi thay đổi cặp nhảy, những cô gái đẹp nhất đã rơi vào vòng tay ông. Cơ thể đông cứng của ông như tan mềm một cách kỳ lạ trong suốt mùa hè và tâm hồn trở lại tươi trẻ của ông bị lôi cuốn không sao cưỡng lại nổi bởi niềm hân hoan vĩnh cữu. Cuốn nhật ký của ông ghi: “ Những giấc mộng hiền hòa “, chàng Vecte ngày xưa thức giấc trong lòng ông. Sự tiếp xúc với nữ giới gợi cho ông những bài thơ nho nhỏ, thôi thúc ông buông những lời bỡn cợt, chòng ghẹo như nửa thế kỷ trước khi ông giao du với Lili. Sự lựa chọn của ông còn chưa dứt khoát: thoạt đầu là nữ nhạc sĩ Ba Lan xinh đẹp, sau đó là thiếu nữ Unric-phôn Lêvetzốp đã làm trái tim trẻ lại của ông hồi hộp. Mười lăm năm trước đó ông đã yêu bà mẹ, cách đây một năm ông còn như người cha đùa cợt với cô “ cháu gái “, nhưng đột nhiên tình mến thương biến thành nỗi đắm say. Đó là một cơn bệnh mới chế ngự và dày vò ông còn điêu đứng hơn bất cứ một chuyện gì đã dày vò ông từ trước tới nay. Ông si tình như một chàng trai trẻ. Vừa nghe thấy giọng nói mến yêu trên lối đi dạo chơi là ông bỏ cả công việc, tay không cầm can, đầu không đội mũ, vội vàng chạy đến với cô cháu tươi cười đang gọi ông. Cuối cùng, ông cầu hôn như một chàng trai và người ta chứng kiến một cảnh tượng lố bịch và phảng phất đôi nét của thần đồng áng trong tính bi kịch của nó. Sau khi bí mật bàn bạc với thầy thuốc riêng của mình, Gớt tâm sự với người bạn già nhất của ông, ngài đại công tước, nhờ ngài giúp ông đến cầu xin bà Phôn Lêvetzốp gả cô con gái Unricke cho ông. Ông bạn già nhớ lại biết bao đêm truy hoan cùng Gớt năm mươi năm trước đây, có lẽ cười thầm con người mà cả nước Đức và châu Âu sùng kính như một nhà thông thái nhất trong số những nhà thông thái, một đầu óc chín chắn và sáng suốt nhất của thời đại. Nhưng ngài vẫn đeo huân chương và trịnh trọng đến xin bà mẹ gả cô con gái cho ông lão bảy mươi tư. Người ta không biết đích xác câu trả lời ra sao, nhưng hình như đó chỉ là một kế trì hoãn. Vì vậy Gớt không nắm chắc được gì, ông đành bằng lòng với vài cái hôn thoáng qua mà ông đã nhận được, với những lời dễ thương dành cho ông, trong khi nỗi thèm muốn ngày càng mãnh liệt làm ông khổ sở: thèm muốn được chiếm hữu và được ôm trọn trong vòng tay cái tuổi thanh xuân mang một dáng vẻ quyến rũ như thế. Một lần nữa, con người mãi mãi nôn nóng ấy đấu tranh cho cái mà ông coi là ân huệ cao nhất lúc đó. Trung thành với mối tình của mình, ông đã theo người yêu dấu từ Marienbat đến Cacbat, nhưng ở đó cũng không có cái gì chắc chắn và mùa hè dần qua đi thì nỗi đau khổ của ông cũng lớn dần lên. Đã đến lúc sắp lên đường, ông sẽ phải ra đi không có một lời hẹn ước. Khi xe bắt đầu lăn bánh, con người vĩ đại có trực giác mạnh mẽ ấy đã cảm thấy rằng một cái gì lớn lao trong đời mình vừa chấm dứt. Nhưng người bạn đồng hành vĩnh cữu của mọi đau khổ sâu sắc, người khuyên giải cao tuổi đã có mặt trong những giờ phút ưu buồn, thiên tài đã cúi xuống con người đang đau khổ, và con người không tìm thấy nguồn an ủi trên cõi thế liền cầu cứu Thượng đế. Một lần nữa Gớt trốn chạy vào thi ca và để tỏ lòng biết ơn Thượng đế về ân huệ đã được ban phát lần cuối cùng cho mình, ông ghi nổi bật lên trên bản bi ca mà ông sáng tác, những câu thơ này trong tập Torquato Tasso của ông.