Lần đầu đến đây, tôi mới hai mươi mốt tuổi. Bạn cùng chiến trường với bố sau mười mấy năm mới gặp lại cứ nằng nặc mời cả nhà lên thăm trang trại. Buồn cười, khi đi, mẹ lo lên miền núi không có gì ăn bắt cả nhà nhét đầy hành lý nào mì gói, nào lương khô, nào bánh kẹo và cả nước uống nữa. Thế mà, ở đến ngày thứ hai thì mẹ nghiện điêu nghiện đứng đồ ăn dân tộc.

Trong khi bố sáng, trưa, chiều, tối toàn tụ tập bạn bè uống rượu với thịt trâu gác bếp thì hai mẹ con theo bác gái đổi món xoành xoạch hết bê sang bò, sang ếch, sang cá hồi hun khói. Thích nhất là rau cải mèo ở đây. Cây cải to, xanh mướt, luộc lên nước trong văn vắt, chỉ chấm với nước tương dằm trứng luộc mà tôi ăn hết cả đĩa to. Rồi thì hoa ban xào, hoa ban nấu canh, bữa nào cũng ăn mà không chán.

Ở lại có hai tuần mà da tôi mướt hẳn lên. Bác gái bảo con bé hợp khí hậu ở đây, cứ lên chơi thường xuyên thể nào cũng đi thi hoa hậu được. Lúc về, mẹ ngượng mãi mới dám dúi nhờ bác gái phân tán chỗ đồ khô cho mấy gia đình nghèo tận trong bản. Câu chuyện ấy giờ cả nhà vẫn nhớ, mỗi lần chuẩn bị hành lý đi đâu bố vẫn đùa: Mẹ mày có mang theo lương khô không đấy?

Tôi hai nhăm tuổi thì mặt mũi nhợt nhạt, đem theo duy nhất một cái vali nhỏ lên nhà bác lẩn trốn.
Cuộc tình với một người đàn ông đã có vợ kết thúc trong màn đánh ghen ầm ĩ ở ngay trường tôi dạy, trước mặt các học sinh của tôi. Xấu hổ, ê chề, tôi làm đơn xin nghỉ việc ngay ngày hôm sau và khăn gói đi Mộc Châu.

Tôi khóc không ra nước mắt khi bác gái hỏi thăm chuyện tình cảm. Biết ý, bà không nói gì, chỉ giúp tôi chuẩn bị phòng nghỉ và giục tôi đi tắm nước nóng. Những ngày sau, đi đâu bà cũng rủ tôi đi theo. Một buổi sáng, chúng tôi vào thăm bệnh cho con út một gia đình người Thái. Cả nhà đang quây quần quanh một rổ cà chua, xung quanh là lá bắp cải và một loại lá gì màu vàng xanh tôi không biết tên. Nước miếng tôi ứa ra đầy khoang miệng. Và không kịp chờ được mời đến lần thứ hai, tôi đã sà xuống nhặt mấy quả nhai rau ráu.

Họ dạy tôi cuốn nhót xanh trong lá bắp cải và chấm vào bát chẳm chéo – một loại muối chấm rất đặc biệt của người Thái. Sản phẩm làm nên chẳm chéo gồm có: ớt nướng, tỏi cô đơn Yên Châu, lá chanh, hạt mắc khén và muối. Đây là thứ gia vị không thể thiếu trong bữa ăn của người Thái. Nó có thể dùng để chấm thịt lợn, thịt gà, chấm rau, chấm xôi, chấm các loại quả chua như: nhót, mận, xoài, mơ và sim…

Tôi ăn như người chết đói, trong cái nhìn đầy nghi ngại của bác gái. Trên đường về, bác hỏi rất khẽ:

– Con có bầu phải không?

Tôi giật mình như bỏng nước sôi, đờ ra mất mấy phút. Đến khi kịp nghĩ ra chu kỳ đã chậm gần một tháng thì sợ đến vã mồ hôi lạnh. Vừa tủi, vừa thương thân, tôi òa khóc như một đứa trẻ. Bác gái ôm chặt lấy tôi vỗ về. Đợi đến khi tôi bắt đầu lấy lại hồn phách, bà lại hỏi một câu như trời giáng:

– Nếu có thật thì con làm thế nào?

Làm thế nào đây? Với đứa con không mong đợi của tôi? Đầu óc tôi chỉ mòng mòng một màu đen kịt, và cứ thế, tôi thập thõm đi về theo sự dẫn dắt của bác. Với kinh nghiệm của một y tá và với sự từng trải của một bà mẹ, bác sắc cho tôi một bát nước đen đen. Tôi uống nước lẫn với nước mắt. Tôi khóc cho giọt máu chưa kịp thành hình của tôi. Khóc cho tuổi trẻ dại dột của tôi. Khóc cho cả con tim tan nát đang thắt lên từng hồi trong ngực tôi. Bác gái hỏi tôi có muốn nói chuyện này cho mẹ không? Tôi lắc đầu bảo đến khi khỏe cháu sẽ tự nói. Đến tận bây giờ, mẹ tôi vẫn không thể biết tôi đã từng phải bỏ đi giọt máu đầu tiên của đời mình. Nó đau đớn hệt như ta tự cầm dao xẻo đi từng miếng thịt của mình vậy. Máu cứ chảy mãi không ngừng, và vết thương không bao giờ liền sẹo.