Mẹ Chắt thấy lạnh, tuy đã mặc thêm cái áo bông, nhưng áo đã cũ mà gió Bắc hun hút giữa đêm tối, mẹ có cảm giác như trời có bao nhiêu gió cứ tìm nhà mẹ mà thổi vào. Bên Lào trời có lạnh không? Nếu lạnh thì đốt củi chứ áo quần đâu có nhiều. Nhìn những anh bộ đội đến quán mẹ thì biết, có anh bận quần cụt, chờ quần dài khô mới có cái mặc. Mẹ nhớ và thương Tùng, thiếu vài tháng là đủ hai năm, cầu trời cho con chân cứng đá mềm, để trở về với mẹ. Mẹ mủi lòng nhớ thằng con trai duy nhất, đang cày ruộng thì hò trâu mà xung phong nhập ngũ và ra đi không kịp về thăm mẹ.

Mẹ lên giường nằm chưa ấm chỗ thì có tiếng gọi, mẹ Chắt dậy mở cửa. Ai gọi tui đó, mẹ nói vọng ra sân, trời tối ngả bàn tay không thấy.

– Chúng con mẹ ạ

– Có việc chi mà khuya gió…

– Dạ có phải là quán Quân Dân không ạ…?

– Phải.

– Mẹ cho chúng con ngủ lại… Khiếp trời cả mưa cả gió.

Khi ánh sáng từ chiếc bật lửa tàu bò được bật sáng, mẹ Chắt nhờ châm vào chiếc đèn hoa kỳ đã cũ, và quả nhiên ngôi nhà ấm áp hơn.

Điều làm mẹ Chắt ngạc nhiên là thấy người con gái… Con gái cũng đi bộ đội sao. Cô còn trẻ chưa vượt qua tuổi 20, dong dỏng cao, da trắng, đôi mắt đen đẹp. Có lẽ họ đi từ xa đến, anh bộ đội thì còn sung sức, cô gái lấm tấm mồ hôi nên khi mẹ rót nước mời, cô cám ơn và uống ngon lành.

Anh bộ đội cao hơn cô một cái đầu, người khỏe mạnh, tóc dày đen, nét nổi trội là cái miệng có duyên, anh ta mang cái ba lô chật căng, lại khoanh bụng cái bao gạo, một cái xắc cốt da thêm khẩu súng lục, khi anh bỏ những thứ ấy xuống cái ghế băng, như trút gánh nặng, người anh như lớn cao một ít, cái áo xita vải dày ướt đẫm mồ hôi sau phía lưng. Ấy vậy mà anh không tỏ ra mệt nhọc, vui vẻ hỏi thăm mẹ Chắt thân tình. Lát sau anh ta mở ba lô đưa cho cô gái bộ áo quần, tấm vải đen dài dùng làm chăn đắp cho kẻ đi đường và bảo cô:

– Em đi thay áo quần mà nghỉ ngơi.

Anh đặt ba lô ruột tượng gạo lên sạp nứa, riêng khẩu súng lục thì không rời thân.

Nằm bên mẹ Chắt, cô gái thao thức khó ngủ, làm mẹ cũng mất ngủ theo, nên khi có tiếng gà mẹ và cô vùng dậy, cả hai mẹ con ngồi bên bếp lửa và cô hỏi chuyện làm quen. Khi nồi cơm đã sôi, mẹ nhờ cô bóc đậu phụng để rang làm muối bới cơm nắm cho ba anh đến trước đi đường.

Trời sáng dần, cô hỏi mẹ đường ra bờ sông, khi cô trở về đang phơi áo quần thì anh bộ đội trách yêu sao không gọi anh dậy cùng đi, anh cũng thay bộ quần áo lấm bụi đường trường. Ba anh bộ đội đến trước đang ăn cơm mời cô gái và anh bộ đội có súng lục. Họ thì thầm là cấp gì… C hay D…?, còn cô gái là gì thì họ nhìn nhau nghi ngại, em gái, đồng đội (y tá) chẳng hạn, hay vợ chưa cưới… Bây giờ họ giữ ý tứ để khi ra đường tha hồ mà tranh cãi không phân thắng thua.

Mấy ngày sau trời đẹp hẳn lên, nắng ấm mùa đông không những cây lá trẻ trung, xanh lại mà những cụ già ngày lạnh co ro hớn hở ra vườn. Khách của quán Quân Dân cũng chỉ anh bộ đội có súng lục cùng cô gái đến trong đêm, thành thử đến bữa ăn mẹ cùng ăn như một gia đình và cô gái đi ra thị trấn bên bờ sông mua được cá tươi, hến… bữa ăn tươi hơn. Dù họ mời ép mẹ Chắt cũng chỉ tròn ba bát.

– Các con ăn đi, mẹ ăn vậy là đủ no rồi, người già ăn no quá nặng bụng.

Khi đặt bát đũa xuống mâm, mẹ nhìn hai người. Ngày kia có chợ phiên cuối tháng, đông vui lắm, nếu còn ở lại đi chợ mà xem. Chợ họp về đêm đông người lắm.

Họ đã ở đến ngày thứ năm, anh không thể dùng dằng không đi, điều cần nói với bà mẹ thì chưa thể nói, họ đi trên đê La Giang, con đê chạy dài theo bờ sông, đã qua mùa lụt, nước trong vắt và những chiếc đò căng buồm từ dưới chợ Tràng lên họp chợ phiên tối nay nhộn nhịp. Những bè nứa dài như hạm đội kỳ lạ từ Phố Châu về, Ngàn Trươi xuống tấp vào ven sông, khói cơm chiều từ khum lá che tạm trên bè bóc lên giữa trời nước con sông La hai bên bờ từ Linh Cảm về lá dâu xanh tốt. Nếu chiếc cầu sắt Thọ Tường không bị giật mìn đổ gục chắn dòng thực hiện tiêu thổ kháng chiến, thì không ai nghĩ đến chiến tranh. Diên thấy vui khi đi bên Cao và nói những ý định khi anh trở về, hai người sum họp thành vợ thành chồng. Nhưng điều cần nói với mẹ trước lúc anh chia tay thì cả hai người chưa nói được. Cao không thể không nói để ngày kia ra đi. Chợ đã đông người, đèn hoa kỳ được thắp sáng như sao sa, không thiếu một thứ gì, từ cây lá làm nhà ở đến cái giường tre, đôi đũa, hàng ăn được bày bán ở nơi cao ráo và mùi thơm thức ăn kho nấu lơ lửng một vùng rộng cuốn hút những ai cần ăn.