Cảnh quang phố phường bây giờ đều sáng sủa khang trang bởi những cao ốc mới xây nghễu nghệu, những chiếc xe hơi nhập ngoại bóng loáng, những hình người mặc váy, đóng com lê rất chi là lịch sự.

Con xóm cụt quanh năm bùn lầy nước đọng của Ngộ nằm ăn theo mặt tiền phố lớn. Tứ xứ đâu đổ về toàn đàn bà con gái hơ hớ, ăn mặc thì hết cỡ mát trời, mùi phấn son ngào ngạt chiếm hữu luôn cái mùi cống rãnh truyền kiếp ở đây. Ánh sáng, kỷ nguyên văn minh kiểu Mỹ ấy còn hắt rất nhanh vào tận căn nhà, cuộc sống đen tối rách nát cuối xóm cụt của vợ chồng lão Tám.

Vợ chồng lão trước thời kỳ đổi mới sinh sống bằng đủ thứ nghề lao động chân tay, từ cuốc đất, thông cống, móc hầm cầu hay phụ hồ thì cứ tìm đến nhà lão… và nếu ai cần tư vấn chuyện hiếm muộn đường con cái thì đã có sẵn vợ lão, người đàn bà được cả xóm mệnh danh mới đụng tới chân giường đã có bầu.

Cư dân xóm gọi Tám bằng lão chẳng phải vì do tuổi tác. Nếu nói tuổi, thì gã đàn ông vừa bước qua ngưỡng năm mươi như lão chưa đủ độ già. Nhưng nếu tính tuổi trên đầu lũ con lão cộng tác với vợ sản xuất ra thì phải gọi là đại lão. Chuyện con cái nheo nhóc một dàn tám đứa san sát nhau vẫn là nỗi bận tâm, đau đầu của các vị cán bộ kế hoạch hoá gia đình của tổ, của phường. Dù không quan tâm đến công việc của họ, Ngộ cũng biết tỏng điều khổ tâm của họ qua từng nét mặt nhăn nhó vì bị khiển trách cắt thưởng, phấn đấu mãi cũng không kiếm được mảnh bằng khu phố văn hoá.

Bà Lý, chủ tịch hội phụ nữ phường ở sát nách nhà Ngộ, chỉ cách nhau có hàng chè tàu thưa. Hai vợ chồng bà đều là cán bộ nghỉ hưu, rất nhiệt tình đóng góp chút công sức cuối đời cho địa phương. Chồng khối trưởng dân phố, vợ chủ tịch phụ nữ kiêm kế hoạch hóa gia đình. Ngôi nhà họ rộng rãi với hàng hiên đúc bê tông và khoảng sân lát gạch men láng bóng. Nơi vẫn thường làm chỗ hội họp từ chuyện công đến việc tư của xóm.

Ngộ lại có thói quen mỗi buổi tối ngồi uống trà, chiếc bàn lại đặt sát hàng rào, vì thế chẳng có buổi họp nào của cánh phụ nữ mà không lọt vào tai anh. Và thường sau mỗi lần bà Lý phổ biến chính sách, kế hoạch cho chị em, Ngộ lại kiếm chác thêm được vài mẩu giai thoại rất vui về gia đình lão Tám.

Nhà lão nằm tận cùng ngõ hẹp, mười nhân khẩu sinh hoạt trên một diện tích chưa đầy ba mươi mét vuông. Miếng đất được thừa kế của một bà cô nào đó mà nếu có ai hỏi thì lão lúng túng ậm ừ mãi cũng không trích lục nổi mối quan hệ huyết thống. Có thể nó là đất chiếm dụng trong lúc chiến tranh loạn lạc, nhưng thời buổi cơm thua gạo kém chạy ăn, chạy mặc bở hơi tai, ai hơi đâu mất công săm soi gốc tích cho mệt xác.

Gọi là nhà cho oai, chứ thực chất nó chỉ như cái lều được vá víu bằng đủ loại vật liệu, từ tấm tôn đã rách toạc đến mảnh giấy các tông đóng thùng. Nói chung lão mạt rệp nhất trong cái xóm cụt nổi tiếng nhờ nghèo. Nhưng “…nghèo là tại cái số trời bắt nghèo, chứ đâu chỉ tại nhiều con là phải nghèo đâu. Con là lộc trời mà… tui đẻ nhiều thì tui nuôi có bắt ai nuôi đâu mà đâm thọc với phê bình…” Lão hiên ngang trả lời thế mỗi khi ai đó trong buổi họp dám đả động tới chuyện đông con. Những khi đó có lẽ lão quên tuốt sự cứu trợ của bà con chòm xóm mỗi khi nhà lão có chuyện trái gió trở trời.

Nhưng lắm lúc lão cũng tỏ vẻ rất biết điều:

– Chơ… chơ tui hỏi nhà chỉ có một cái giường… với lại người ta có tiền có của, họ còn có món để mà vui chơi giải trí, còn tui thì biết tìm vui thú ở đâu ngoài cái chuyện ấy…

– Vậy sao đã phát cả thuốc lẫn bao phòng tránh thai lại không chịu sử dụng.

Bà Lý cố nén cười, gằn giọng hỏi, lão thả dài khuôn mặt ngắn ngủn, đen thui thường xuyên lấm lem bụi đất rồi đưa tay gãi đầu sồn sột:

– Khổ lắm chị Lý ơi, chị cũng biết tính khí của mụ vợ tui rồi đó. Mụ hay sợ dại, mụ còn bảo cứ làm theo kiểu cũ cho yên tâm. Mà con cái là lộc trời cho, cứ cố công nuôi dưỡng mai sau được nhờ. Mụ còn khuyên tui đừng có nghe chị xúi dại mà đi cắt với thắt rồi ngây ngây dại dại không ai nuôi con.

Câu nói tưng tửng của lão Tám xem chừng như chuyện đùa vậy mà cũng linh ứng. Thời gian chỉ một vài năm trở lại đây, khi những đứa con của vợ chồng lão lớn dần lên theo sự phát triển nền văn minh chơi bời đến chóng mặt ngoài dãy phố. Chúng nhanh chóng kiếm được việc làm, bắt kịp nhịp sống mới nên kiếm được bộn tiền nhờ các tụ điểm hát hò, nhảy nhót, ăn nhậu mọc rộ lên như nấm sau mưa. Nhiều người trước đây nhìn gia đình lão bằng ánh mắt giễu cợt, rẻ rúng xưa kia bây giờ cũng đã xoay tròng một trăm tám mươi độ.

Lão bây giờ oai ra phết. Căn lều rách nát được thay thế bằng một ngôi nhà ba tầng chơi theo mốt mái Thái, nằm bề thế trên nền diện tích cũ, chừng như sự bề thế lạ lùng đó cũng có lấn chiếm thêm chút đỉnh qua hai bên láng giềng và cả ngõ xóm. Thời buổi đất bạc đất vàng, bị lấn một hai tấc đất cũng xót lắm, vậy mà chẳng ai dám kiện tụng, tranh chấp gì. Lũ con trai đông đen đông đỏ trong nhà lão, chúng lại rất ngầu với những mái tóc nhuộm trắng, nhuộm vàng y như tài tử xi nê Hàn Quốc. Tuy chưa có đứa nào quá ba mươi song đã nổi danh anh chị khắp thành phố, mấy thằng con trai đều làm mặt rô, ma cô dẫn gái, những đứa con gái thì tiếp viên cho các quán bia ôm, quán nhậu kiêm đi khách tại gia. Đấm đá, đâm chém là chuyện thường ngày của chúng. Nên chẳng ai dại chi chọc vào tổ ong vò vẽ đó.