5. cây gậy của ba tôi
Cây gậy dựng bên vách, ban đêm ra đường ba tôi thường cầm theo để phòng chó dữ.
Tôi không biết ông từng đánh trúng con chó nào xông vào chân ông chưa. Cũng như tôi không biết ông đã lần nào quẹt được đầu gậy vào người chú Đàn.
Nhưng cây gậy đó đã nện lên lưng tôi và mông tôi nhiều lần.
Ba tôi là người hoạt khẩu. Ông nhiều lần chở tôi đi chơi, đến đâu tôi cũng thấy người ta mê tài nói chuyện của ông. Ông nói chuyện hoạt bát và hấp dẫn. Mỗi khi ông kể chuyện Tiết Đinh San hay Chung Vô Diệm, cả mấy chục người xúm xít nghe, mặt đờ ra như bị hút hồn.

Ông lại có tài đặt thơ.
Trong làng có ông Tư Cang góa vợ, sống với đứa con gái tên Bé Na. Ông Tư Cang nuôi hai con trâu, cổ con nào cũng đeo lục lạc, mỗi khi trâu chạy lạc, ông lần theo tiếng leng keng để đi tìm. Lúc đầu hai con trâu của ông đi tới đâu, con nít xúm lại tới đó. Nghe tiếng lục lạc, chúng tưởng xe cà rem dạo. Từ đó người làng gọi ông là “ông già cà rem”.
Hai cha con ông Tư Cang sống bằng nghề gặt thuê. Một hôm hai cha con đang lui cui gặt, nhằm bụi lúa có tổ ong lá. Con Bé Na bị ong đốt vào mông, kêu ầm. Ông Tư Cang quýnh quíu xông vô “Chi vậy con? Chi vậy con?”, bầy ong bay ra, chích vô háng ông. Ông quăng liềm hái, chạy một mạch. Chạy một đỗi xa, ông vạch háng ra xem, than trời như bộng.
Ba tôi đặt thơ trêu ông, bữa sau bọn con nít chăn bò đi đâu cũng nghêu ngao:
– Ong vừa mới chích Bé Na / Chừ quay sang chích ông già cà rem / Ông già vạch háng ra xem / Mới hai hòn đó chừ thêm một hòn.
Giỡn chơi vậy thôi mà ông Tư Cang xách rựa đi lùng ba tôi suốt một tuần.
Lại chuyện ông Cả Hớn trúng số. Cả Hớn cả đời mới mua một tờ vé số, nghĩ không bao giờ trúng, lấy cơm nguội dán tờ vé số vô cây cột cái giữa nhà để trang trí. Nào ngờ lần đó Cả Hớn trúng thật, lại trúng độc đắc.
Cả Hớn mừng quýnh, kẹt nỗi không làm sao gỡ tờ vé số ra khỏi cây cột. Cố gỡ thì sợ rách, Cả Hớn cưa luôn cây cột, vác xuống đường lộ, đón xe ra thành phố lãnh giải. Cuối cùng Cả Hớn cũng lãnh được tiền, nhưng dọc đường đi cây cột trên vai Cả Hớn đụng ngã cả chục người. Không ai chết, nhưng tiền bồi thường cho nạn nhân thuốc men và nằm nhà thương ngốn gần hết tiền trúng số. Mất cây cột cái, mái nhà võng xuống, vài hôm sau gặp mưa lớn, sập luôn. Vợ chồng con cái Cả Hớn nhanh chân chạy thoát, nhưng hôm sau Cả Hớn phải đi vay nợ khắp nơi để dựng lại nhà, mồm miệng lệch qua một bên như bị trúng gió.
Ba tôi tức cảnh sinh tình:
– Trúng số cứ tưởng trúng bom / Hết ôm cây cột tới ôm nợ nần.
Con nít hát trêu hôm trước, hôm sau ông Cả Hớn đến nhà tìm ba tôi. Ông đi tay không, chỉ để mếu máo:
– Anh Sáu nói đúng. Nhà tôi bây giờ tan hoang như thể trúng bom. Anh làm ơn cho tôi vay một ít.
Ba tôi ra ngoài thì hoạt bát, vui vẻ như vậy nhưng về nhà rất hay nổi cộc. Anh em tôi ăn đòn của ba tôi khá thường xuyên. Ba tôi không biết kiếm đâu ra cây roi mây, giắt trên vách. Mỗi lần anh em tôi làm điều gì lầm lỗi, ông bặm môi rút cây roi một cái “sột”, quất một cái “vút”. Tôi ăn roi mây, đau vãi ra quần, lằn ngang lằn dọc khắp người.
Mẹ tôi hãi quá, len lén rút cây roi trên vách giấu đi. Lúc nổi giận tìm không thấy cây roi, ba tôi vớ cây gậy đánh chó vụt đen đét vào lưng tôi.
Thế là mẹ tôi lại lén lút cắm cây roi vào chỗ cũ.
Từ bữa đó anh em tôi ăn đòn bằng cả roi lẫn gậy.
6. nhà con Mận
Bất cứ đứa trẻ con nào cũng có hàng trăm lý do, hàng trăm tội lỗi để bị ăn đòn.
Một trong người cái tội lớn nhất của tôi là tội sợ ma.
Tôi sợ ma, không dám đi ngang nghĩa trang vào ban đêm, mặc dù ban ngày nghĩa trang là một sân chơi kỳ diệu với bọn trẻ chúng tôi. Tôi theo đám bạn chăn bò chạy nhảy qua những mô đất, nô đùa với trò chơi u, chơi rượt bắt và cuối cùng bao giờ chúng tôi cũng chơi trò ưa thích nhất là thả diều. Cái cảm giác kéo một chú diều giấy chạy ngược gió để sung sướng nhìn nó bay lên, tay không ngừng nới lỏng cuộn dây cước rất giống với cảm giác mình đang nâng đỡ cả bầu trời. Tôi thả hết sợi cước trong tay, cột một đầu dây vào gốc cây dương liễu rồi gối đầu trên khúc gỗ mục, ngửa mặt nhìn lên bầu trời xanh ngắm những cánh diều bay lượn.
Thế nhưng khi bóng đêm thả xuống những mảng tối, thế giới quanh tôi bỗng mang một bộ mặt khác. Nghĩa trang ban đêm đom đóm chập chờn bay lẫn với ma trơi, mỗi lần buộc phải đi ngang tóc gáy tôi dựng đứng. Những câu chuyện ma của chú Đàn lần lượt hiện ra trong óc khiến tôi muốn xỉu.
Tiệm tạp hóa nhà con Mận cách nhà tôi một quãng xa, mẹ tôi lại hay sai tôi sang nhà nó khi thì mua cái hột vịt khi thì mua chai nước mắm, toàn vào những lúc tối mịt. Đối với tôi, đó là một cực hình.
Năm đó tôi học lớp bảy, đã mười ba tuổi, nhưng vẫn còn sợ ma. Tôi sợ sệt đi ngang nghĩa trang dưới ánh sao mờ, cứ có cảm giác ai đang đi sau lưng mình. Khi ngoảnh cổ nhìn ra sau thì không thấy ai. Nhưng hễ quay lại là tôi nghe có tiếng chân bước ngay sau lưng. Tôi sợ quá, co cẳng chạy, người phía sau cũng chạy theo tôi, tiếng chân thình thịch khiến tôi muốn són ra quần. Lần nào cũng vậy, tôi vừa ló đầu vô quán là con Mận ngạc nhiên hỏi “Làm gì Thiều hớt hơ hớt hải thế?”. Tôi không dám nói là tôi sợ ma. Tôi bảo chó rượt. Nhìn mặt tôi biết con Mận không tin, nhưng nó không nói gì. Nhà tôi cách nhà nó một nghĩa trang, ở giữa không có nhà nào khác nên không thể có con chó nào khác trừ con Vện nhà nó.
Con Vện nhà con Mận là một con chó già.
Bạ.n .Đa.ng. Đ.ọc. T.ru.yệ.n .Tạ.i .We.bs.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. Mắt nó bị lòa, gần như không nhìn thấy gì. Tai và mũi nó không còn thính nhạy nữa, nhưng dĩ nhiên tôi vào nhà thì nó vẫn biết. Nó nằm yên dưới gầm giường, mông quay về phía tôi và vẫy đuôi chào tôi một cách biếng nhác.
Con Vện giống hệt chủ của nó. Ba con Mận cũng bị bênh thong manh, tôi nghe ba tôi nói thế. Trước đây, lúc mắt còn tinh, ông hành nghề cắt tóc. Ông là một trong hai người thợ cắt tóc trong làng. Nhưng ông oách hơn, ông cắt tóc ở nhà, có treo tấm giấy các-tông trước cửa, ghi nguệch ngoạc: HỚT TÓC. Ông thợ kia là người hớt tóc dạo. Một thời gian dài, tôi cắt tóc chỗ ba con Mận.
Nhưng rồi ba tôi không cho tôi cắt tóc ở chỗ ông nữa. Một lần ông suýt cắt đứt tai người này, lần khác ông làm chảy máu cằm người khác. Đến một ngày, người làng thấy da ông ửng đỏ, rồi nửa tháng sau trên làng da đỏ hiện lên những vảy trắng. Ông vừa cắt tóc vừa gãi. Khi ông gãi, những vảy trắng tróc ra, bay khắp nơi như bụi phấn. Người ta đồn ông bị bệnh phong. Có người bảo chính bệnh phong đã làm hỏng đôi mắt ông. Chẳng biết điều đó đúng không nhưng khách cắt tóc lảng dần.
Chẳng bao lâu tiệm hớt tóc đóng cửa. Mẹ con Mận mở tiệm tạp hóa để kiếm sống qua ngày.
Tối nào cũng vậy, vừa cầm cái hột vịt hay chai nước mắm con Mận đưa là tôi cắm cổ chạy vù về nhà, hai mắt gần như nhắm tịt để tia nhìn khỏi bị hút về phía nghĩa trang. Rất nhiều lần tôi vấp té dọc đường, đồ cầm trên tay bị vỡ nát, về đến nhà nếu lòng trắng lòng đỏ không nhoe hoét khắp người thì đầu cổ cũng nồng nặc mùi nước mắm.
Ba tôi bắt gặp thế nào cũng vụt gậy vào lưng tôi. Mẹ tôi can “Ông ơi, con nó sợ ma”. Ba tôi càng vụt tợn, vừa vụt gậy vừa gầm gừ “Ma với cỏ này! Lớn tồng ngồng rồi mà còn sợ ma này!”.
Thế là lưng tôi nổi lằn.
Thế là tối đó mẹ tôi vừa khóc vừa lấy muối đắp lên lưng tôi.
7. thằng Tường
Thực ra tuổi thơ tôi không ăn đòn thường xuyên bằng thằng Tường, em tôi.
Tường là một thằng nhóc rất đẹp trai. Nó đẹp ngay từ khi còn bé. Tường mang khuôn mặt thanh mảnh của mẹ tôi và đôi mắt to với cặp lông mi dài của ba tôi. Tóc nó dày, mịn như tơ, da trắng hồng, miệng rộng với hàm răng trắng và đều tăm tắp như những viên đá cuội được mài dũa và sắp xếp cẩn thận. Mỗi khi Tường cười có cảm giác gương mặt nó đang tỏa sáng. Nụ cười đó, gương mặt đẹp như thiên thần đó luôn đem lại cho người đối diện một niềm vui khó giải thích.
Thế nhưng trong hai anh em tôi, nó là đứa ăn đòn của ba tôi nhiều nhất, không phải vì nó quỷ quái gì mà vì nó có một ông anh quỷ quái.
Một lần, tôi rủ nó trốn ngủ trưa chạy qua bãi đất trống cạnh nhà chơi trò ném đá.
Làng định xây trạm xá trên bãi đất này, đá ba lát mua về chất đống nhưng rồi thiếu tiền nên cứ để mãi.
Đá ba lát to bằng nắm tay, rắn như thép, các cạnh lại nhọn sắc, ném trúng là vỡ đầu, thằng Tường hãi lắm.
Nó tần ngần nhìn đống đá, rụt cổ:
– Em không chơi trò này đâu. Rủi trúng vào đầu thì chết!
– Chết sao được mà chết. – Tôi trấn an nó – Tao và mày đứng thật xa ném nhau, thấy hòn đá bay tới là mình nhảy tránh. Đứng xa thì rủi đá trúng vào người cũng chẳng hề hấn gì.
Tường có vẻ không bị tôi thuyết phục. Nó nhìn lên cành phượng đỏ rực bên kia đường:
– Hay mình hái nhụy hoa phượng chơi trò đá gà đi, anh.
Nhụy hoa phượng có cọng dài và mảnh, đầu hình hạt gạo, màu nâu. Trẻ con bọn tôi hay chơi trò đá gà bằng nhụy hoa phượng. Hai con gà là hai cái nhụy móc đầu vào nhau, giựt mạnh, đầu gà nào đứt trước là gà ấy thua. Mỗi độ hè về, tôi cũng hay chơi trò đá gà bằng nhụy hoa phượng, nhưng lúc này tôi đang thích trò ném đá.
Tôi bĩu môi:
– Đó là trò con gái. Tao và mày là con trai. Con trai phải chơi trò ném đá hoặc phóng lao.
Tôi nhìn thằng Tường qua khóe mắt, láu lỉnh:
– Hay mày muốn chơi trò phóng dao?
Nghe hai chữ phóng dao, thằng Tường sợ run:
– Thôi, anh và em chơi trò ném đá đi!
Nói xong, thằng Tường co giò chạy ra thật xa. Nó chạy tuốt ra sát đường lộ rồi quay đầu lại:
– Em đứng chỗ này được chưa?
– Ờ, mày đứng đó đi. Bắt đầu ném nha.
Tôi nói, và cuối xuống lượm hai hòn đá ba lát, mỗi tay một hòn.
Thằng Tường cũng lật đật thủ đá trong tay.
Tôi đứng sát rìa nghĩa trang, thằng Tường đứng cạnh đường lộ thi nhau ném. Suốt một tiếng đồng hồ cứ như có một cơn mưa đá trút xuống buổi chiều chói chang. Những hòn đá bay lấp lánh trong nắng, kêu vù vù.
Thằng Tường ném khỏe hơn tôi. Những hòn đá nó ném ra bay nhanh và chính xác.
Tôi càng chơi càng quýnh, bị thằng Tường ném trúng cả chục lần. Đá bay sắp hết đà, chỉ va vào người, không đau lắm nhưng vẫn khiến tôi điên tiết. Điên nhất là tôi vẫn chưa ném trúng nó được lần nào.
Đã thế, cứ mỗi lần ném trúng tôi, thằng Tường lại thõng tay, giọng áy náy:
– Thôi, mình ngừng chơi nghe anh.
Tôi tự ái ghê gớm mỗi lần nghe nó nói thế.
– Không ngừng gì hết!
Tôi hậm hực đáp và nghiến răng liệng đá ra.
thằng Tường có vẻ lúng túng trước sự hăng máu của tôi. Nó vẫn tiếp tục cuộc chơi để chiều tôi, nhưng những hòn đá của nó bắt đầu bay ngập ngừng và toàn lạc đi đâu xa lắc.
Biết nó cố tình ném trật, tôi lại càng sôi gan. Nhưng tôi không biết làm gì để trút giận.
Cuối cùng tôi nghĩ được một kế.
– Thôi, tao đầu hàng. – Tôi nói, ỉu xìu, và hạ tay xuống.
Tường mừng quýnh, nó đã muốn chấm dứt cuộc chiến không mong đợi này quá lâu rồi.
Nó chạy xô lại phía tôi, không mảy may ngờ vực, giọng ân cần:
– Anh có bị bầm chỗ nào không, để em vô nhà lấy dầu xức cho anh.
Tường không biết tôi vẫn nắm khư khư hòn đá ba lát trong tay.
Đợi nó lại gần, tôi mím môi vung tay ra.
Hoàn toàn bất ngờ, Tường không kịp né. Hòn đá đập ngay màng tang nó.
Thực lòng tôi không cố ý ném vào đầu Tường. Tôi chỉ hành động theo sự xúi giục của cơn giận.
Tường ngã bệt xuống đất, hai tay ôm đầu:
– Ối, đau em quá!
Tôi hoảng hốt chạy lại gỡ tay nó ra, giọng hồi hộp:
– Mày bỏ tay ra tao xem thử nào.
Tường bỏ tay ra, tôi xám mặt thấy những ngón tay nó dính đầy máu.
– Chết rồi! Chảy máu, mày ơi!
Tường lo lắng:
– Nhiều không anh?
– Hơi hơi thôi.
Tôi nói dối và một tay bịt vết thương trên đầu nó, tay kia đỡ lưng nó, tôi nói tiếp:
– Mày đứng lên đi. Tao dìu mày vô nhà lấy thuốc sức.
Tường đi bên cạnh tôi, mếu máo:
– Sao anh lại ném em? Anh bảo là anh đầu hàng rồi kia mà!
– Cái đó là trá hàng, tức là giả vờ đầu hàng đó, mày hiểu chưa? – Tôi chống chế – Khi đánh nhau, người ta phải dùng mọi mưu mẹo để giành chiến thắng. Có thế mới gọi là tướng tài.
Thằng Tường nghe tôi ba hoa, phục lăn. Nó quên mất cơn đau âm ỉ chỗ màng tang, miệng xuýt xoa:
– Mưu mẹo của anh hay thật. Em chả nghi ngờ gì cả. Lớn lên nếu đi đánh giặc thế nào anh cũng làm tới đại tướng.
– Chắc chắn rồi!
Tôi đáp, bụng ngập tràn hối hận. Tôi đã lừa em tôi, đã làm nó bị thương, thế nhưng nó vẫn luôn hồn nhiên tin tưởng tôi, kể cả những lời bốc phét khó tin nhất.
Tôi dìu Tường dọc bờ rào, đầu loay hoay nghĩ cách chuộc lỗi với nó. Tôi tự hứa với mình: mai mốt nếu thằng Tường gặp phải hoạn nạn gì, bị ba tôi phạt đánh đòn vì tội ham chơi bỏ bê bài vở chẳng hạn, tôi sẽ xung phong nhận tội thay nó, tôi sẽ nói với ba tôi là chính tôi xúi thằng Tường đi chơi…
Một giọng nói sang sảng thình lình vang lên cắt ngang những ý nghĩ tốt đẹp trong đầu tôi:
– Hai đứa bay không ngủ trưa trốn ra đây làm gì đó?
Không cần ngước mắt lên, chỉ nghe giọng nói lạnh lẽo kia xát vào tai, tôi đã run như cầy sấy, biết địa ngục sắp sửa trút xuống đầu.
Để ba tôi bắt quả tang hai anh em lang thang ngoài trưa nắng, cũng gần như để thần chết tóm được gáy.
Thế là không nói không rằng, tôi buông ngay thằng Tường ra, co giò phi một mạch qua nhà bà tôi.
Tôi trốn ở nhà bà tôi đến tối mịt, khi biết chắc ba tôi đã đi ngủ, tôi mới dám mò về nhà.
Tôi thậm thụt vô nhà bằng ngả sau, len lén đi về phía giường ngủ trên những đầu ngón chân, sè sẹ phủi chân rồi vén mùng rón rén chui vô.
– Anh hai hả? – Tiếng thằng Tường thì thào.
– Ờ, tao đây. – Tôi thì thào lại – Ba mẹ ngủ hết rồi hả?
– Dạ.
– Đầu mày hết đau chưa?
– Còn đau sơ sơ.
Đang nói, thằng Tường bỗng la “oái” một tiếng.
– Khe khẽ thôi mày! – Tôi giật mình – Gì vậy? Tao có đụng vô đầu mày đâu.
– Nhưng anh đụng vô người em.
Tôi sực nhớ ra:
– Hồi trưa chắc mày te tua với ba hả?
– Anh cũng biết rồi mà.
Tôi rùng mình nhớ đến cây gậy đánh chó dựng ở góc nhà và cây roi mây ba tôi giắt trên vách, bỗng thấy thương em tôi vô vàn. Tôi nói và nghe cay cay nơi mắt:
– Mày đừng giận tao nghe. Hồi trưa đáng lẽ tao không nên bỏ chạy. Nếu ba đánh đòn cùng lúc hai đứa, tao đã san sẻ được với mày. Và mày sẽ ăn đòn ít hơn.
– Anh bỏ chạy là đúng rồi. – Thằng Tường thò tay nắm tay tôi – Anh là anh Hai, nếu anh đứng đó, em ăn đòn ít hơn nhưng anh sẽ chết với ba.
Thằng Tường không trách móc gì, tôi càng bứt rứt tợn.

Tôi lục lọi trong óc những từ ngữ tồi tệ nhất để rủa sả mình. Và mấy ngày sau, nhân cả nhà đi vắng tôi rủ Tường ra sau hè ngồi đánh bài cát tê, bị ba tôi tình lình về nhà nhìn thấy, tôi lập tức quên hết những lời tự thề thốt, lại ba chân bốn cẳng vù ra cổng để mặc thằng Tường ở lại một mình chịu trận.
8. mê truyện
Đôi khi tôi có cảm tưởng tôi là em, còn thằng Tường là anh.
Mẹ tôi hay mắng tôi mỗi khi tôi tranh ăn với Tường:
– Con là anh, con phải nhường nhịn em!
Nhưng trên thực tế, toàn thằng Tường nhường nhịn tôi, từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ.
Chẳng phải Tường sợ gì tôi, dù tôi luôn bắt nạt nó. Tường nhường tôi chỉ vì nó là đứa em rất thương anh.
Nó thương tôi và phục vụ tôi. Vì tôi học giỏi, năm nào cũng lãnh phần thưởng đem về.
Tường mân mê hộp bút chì và những cuốn tập gói trong giấy kiếng màu tôi đặt trên chiếc bàn chính giữa nhà, rồi ngước nhìn tôi, mắt lấp lánh niềm vui và sự ngưỡng mộ, miệng không ngớt xuýt xoa:
– Thích quá! Không biết bao giờ em mới học giỏi được như anh.
Một đứa con học giỏi luôn luôn là đứa con được hưởng lợi nhiều nhất trong nhà.
Mẹ tôi hay mắng tôi, hay bảo tôi nhường nhịn Tường nhưng khi trong nhà có việc mẹ tôi ít khi đụng đến tôi. Chạy qua nhà bà mượn cái thúng, cái nia, qua nhà hàng xóm xin rơm về lót ổ cho gà đẻ hay xách nước đổ vô lu mẹ tôi toàn sai thằng Tường. Chỉ vì lý do: “Để cho anh Hai con học bài!”.
Thằng Tường thay tôi gánh hết việc nặng việc nhẹ trong nhà, mặt mày lúc nào cũng vui vẻ, tuyệt không oán thán một câu.
Vì nó cũng nghĩ như mẹ tôi: “Để cho anh Hai học bài!”.
Trừ những lúc ba tôi nổi cộc trút mưa roi lên người tôi, thời gian còn lại tôi chẳng khác nào ông vua con trong nhà, chả phải mó tay vào việc gì. Sau này, ba tôi đi xin việc ngoài thành phố, mỗi cuối tuần mới về nhà, những trận mưa roi gần như tạnh hẳn.
Trong hoàn cảnh đó, tôi đã giỏi càng học giỏi, thằng Tường đã kém càng học kém.
Tường gồng gánh nhiều việc nên ít có thì giờ mó tay vào bài vở, nhưng nó xem đó như là số phận của mình và nó chấp nhận cái phần số hẩm hiu đó một cách nhẹ nhõm, miễn sao tôi học cao thiệt cao, mai mốt trở thành bác sĩ hay kỹ sư và nếu có giặc giã thì tôi ráng làm tới đại tướng để nó có lý do để tự hào.
Tường học hành ì ạch nhưng rất mê đọc sách.
Trong khi tôi chả bao giờ sờ tới một quyển sách thì thằng Tường đi đâu cũng nhét sách trong túi quần. Quần không có túi thì nó lận sách vào thắt lưng.
Bất cứ lúc nào rảnh là nó lôi sách ra say sưa dán mắt vào những trang chữ. Nằm bò ra trên cỏ hàng giờ để đọc sách đối với nó là một điều vô cùng thú vị. Nó đọc sách cả khi ngồi thõng chân trên thành giếng hay đang vắt vẻo trên cành ổi sau vườn.
Lần nào bắt gặp cảnh đó, tôi cũng gắt om:
– Mày không sợ té gãy cổ hả Tường!
Bạch Tuyết và bảy chú lùn, Công chúa ngủ trong rừng, Cô bé Lọ Lem và hàng mớ những chuyện khác, Tường thuộc vanh vách.
Những chuyện đó tất nhiên tôi cũng biết. Nhưng tôi toàn nghe ba tôi và chú Đàn kể. Tự mình mày mò trên những trang sách đặc chữ để lượm từng mẩu chuyện nhét vào trí nhớ là một gánh nặng đối với tôi.
Tường mê đọc sách, tự nhiên tôi được hưởng lợi.
Tôi không cần rớ tới một quyển sách nào vẫn biết được bao nhiêu là chuyện hay.
Tối, lúc hai anh em đã chui vô giường, tôi thường gạ nó kể chuyện cho tôi nghe. Tôi nghe và tôi ngủ lúc nào không hay.
Tối hôm sau tôi lại hỏi “Hôm qua mày kể đến chỗ nào hả Tường?”.

Theo truyennganmoingay.com